T háng Năm về với chùm phượng thắm rưng rức những nỗi niềm về một thời đã xa. Tôi đi miên man trong cái nắng vàng tươi của thành phố biến, thấy lòng mình trải cùng ngọn gió lay động những cánh hoa màu đỏ, lay động hồn tôi về lại mùa chia tay tuổi học trò…

     Ngày ấy xa lắm rồi, tuổi thơ chúng tôi là bữa no bữa đói, là chiến tranh lan rộng, người lớn thì đăm chiêu lo lắng, còn chúng tôi chỉ cần vài củ khoai rồi chui xuống hầm chí chóe với nhau đã có niềm vui bất tận. Nghỉ hè không phải đến lớp, những căn hầm chữ A rộng trở thành điểm sinh hoạt chung của thiếu nhi cả xóm. Tôi làm quen những cuốn sách đầu tiên cũng từ một trong những căn hầm như vậy. Để rồi từ những trang sách tôi nuôi dưỡng tâm hồn mình bay xa đến với những “Cánh buồm đỏ thắm”, đến với “Đất rừng phương Nam”, với “Cây phong non trùm khăn đỏ” trong thế giới rộng lớn mênh mông đầy những điều kỳ thú để mình măc sức khám phá sau này.

     Lớn hơn một chút, tôi biết dùng những ngày nghỉ hè của mình phụ giúp bố mẹ kiếm tiền nuôi đàn em đông đúc. Bán kem, đập gạch, kiếm củi, bán bánh mỳ…việc gì có tiền là tôi lao vào làm không quản ngại. Dưới cái nắng chói chang, hừng hực gió Lào của mùa Hè xứ Nghệ, con bé đen nhẻm tóc khét nắng, chỉ có đôi măt vẫn trong veo, lấp lánh niềm vui với những đồng tiền nhỏ nhoi kiếm được đỡ phần nào gánh nặng cơm áo cho gia đình. Đó là hình ảnh của tôi ngày ấy…

     Hè 1972 lần đầu tiên tôi biết Thủ đô Hà Nội. Đó là một Hà Nội thời chiến với hầm hào lô nhô bên hồ Hoàn Kiếm, tiếng chuông tàu điện leng keng, những cô dân quân súng khoác trên vai, màu áo xanh tôn nước da trắng ngần, những chú bộ đội bước vội trên hè phố…Một bức tranh đô thị thời chiến với nhịp sống hối hả, giản dị nhưng trong mắt của một cô bé từ khu Bốn ra thì vô cùng lạ lẫm và tươi đẹp. Cảnh đẹp đó giúp cô bé con nhà nghèo xứ Nghệ nuôi giấc mơ đến giảng đường đại học để rồi 4 năm sau cô trở thành sinh viên trên đất Thủ đô.

Những mùa hè lứa tuổi cấp 3 với những rung động đầu đời đẹp và mong manh như cánh phượng hồng nhẹ nhàng lìa cành rơi xuống sân trường đâỳ nắng… Tháng Tư năm 1975 là những ngày không thể nào quên. Xen lẫn niềm vui chiến thắng là nỗi xót xa thương nhớ những người bạn đồng môn đã giã từ trường lớp mà không bao giờ có dịp quay trở lai. Tôi mở băng cassette nghe đi nghe lại “Nỗi buồn hoa phượng” – một bài hát vừa du nhập từ miền Nam ra, khóc theo từng câu hát “Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng, biết ai còn nhớ đến ân tình không…”

    Năm tháng đi học xa nhà làm tôi càng mong mỏi mỗi dịp Hè về dẫu con đường đến với thành phố quê hương nơi mà nắng chang chang, gió Lào bỏng rát là chỉ được đứng một chân trên những chuyến tàu nêm chặt người và đủ các mùi xú uế. Xuống ga Vinh, chỉ cần nghe tiếng rao nước, rao bánh mỳ…là bao mệt mỏi tan sạch, lòng rưng rưng nhớ những tháng ngày mình cũng từng là cô bé đón chuyến tàu xa về với bao tải bánh mỳ nặng trĩu lệch một một bên vai.

     Thành phố tuổi thơ tôi giờ đây phát triển nhiều, đường ngang, ngõ dọc thênh thang, nhà cửa san sát, quảng trường to rộng, lung linh đèn hoa mỗi dịp lễ hội… thì vẫn còn đó cái nắng nung người, những trận gió Lào ràn rạt thổi khô bờ cây, ruộng lúa. Vẫn còn đó nét mặt khắc khổ, can trường của những con người chọn ở lại để dựng xây mảnh đất này ngày càng to đẹp đàng hoàng hơn. Để rồi mỗi dịp Hè sang những kẻ tha hương như tôi lại dắt díu con cháu về mà hãnh diện ngắm phố phường, mà tự hào với món ngon xứ Nghệ…

     Và lòng tôi dẫu mấy chục năm rồi vẫn còn nguyên đó nỗi buồn hoa phượng, còn nguyên đó những ân tình sâu nặng mà dường như chẳng bao giờ trả được cho quê. Mỗi dịp Hè sang, ngắm sắc phượng đỏ rực trên những con đường phố biển, tôi như thấy mình trở về tuổi học trò, trở về sân trường xưa nơi có những chàng trai 18 xếp lại bút nghiên, xếp lại kỷ niệm thân thương cùng những cánh phượng ép trong sách vở để lên đường theo tiếng gọi non sông. Có những người trong họ cứ trẻ mãi tuổi 18 với trái tim nồng nàn đỏ như màu hoa phượng…

Minh Nguyệt