DỊU PHẠM

N hững cơn gió khô khốc lạnh buốt thổi ào ào vào mỗi sớm và chiều muộn, báo hiệu mùa khô Tây Nguyên đã đến. Có thể nói, mùa khô Tây Nguyên là bản hoà âm diệu kì của bốn mùa.

          Trong cảm nhận chủ quan của tôi, mùa khô nơi đây có sự xâm nhập một chút thu với tiết trời trong trẻo, tinh khôi điểm tô vài bóng nắng nhè nhẹ, vài cụm mây xốp bảng lảng. Một chút hè với những ngày đẫm nắng, một chút đông mang theo hơi lạnh vào mỗi sớm, và một chút xuân với ban trưa ấm áp.

          Tôi thích nhất mùa khô Tây Nguyên, bởi đó là mùa của những ngày hội rộn rã, náo nức, mùa mà cả không gian được ướp bằng mùi cà phê thơm ngào ngạt hoà quyện trong đất đỏ bazan nồng cháy. Và hơn cả, đó là mùa dã quỳ dát vàng cả lối đi, thao thức cả một góc trời tuổi thơ.

Những buổi chiều bình yên trên cánh đồng, bọn trẻ chăn trâu chúng tôi ngắm dã quỳ nở vàng trên bãi cỏ, nơi ven bờ suối tiêu sơ, thuần khiết, nơi triền dốc thoai thoải, ngọn đồi xa xa, hoặc dọc các con đường đất. Nỗi nhớ nghìn trùng về loài hoa dân dã khiến hoa dã quỳ cứ thấp thoáng trong hồi ức xanh non, trong tâm khảm của những người xa quê. Của những đứa trẻ ngày ấy lớn lên dưới đại ngàn cao nguyên cùng nắng gió, và đã có một thời gắn bó, bạn bè thân thuộc với dã quỳ. Dã quỳ mọc từng đám, nở thành từng vạt, vươn mình đọ sắc cùng ánh mặt trời rực rỡ đã trở thành một ám ảnh day dứt và ngọt ngào trong lòng tôi.

          Cái độ rực rỡ nhất, đẹp nhất của dã quỳ là vào khoảng tháng mười một, tháng mười hai. Lúc ấy, đất trời như thăng hoa làm bàn đỡ cho dã quỳ có cơ hội thể hiện hết mình cái vẻ vàng tận độ. Dã quỳ, bản thân cái tên của loài hoa ấy nghe đã hoang dại, tự nhiên, gần gũi với núi rừng, kì bí, lôi cuốn và cũng rất mạnh mẽ. Bởi vì là đứa con hoang lớn lên nhờ ân phúc của tạo hoá, cho nên dã quỳ có thể mọc ở bất cứ đâu, mọc ở những nơi cằn cỗi nhất, tự lấy thân mình bao bọc lấy chính mình mà vươn lên. Không được vun trồng, không được tưới tắm, không được tỉa tót nâng niu, chăm bón cầu kì. Vậy mà dã quỳ vẫn âm thầm nở nơi sỏi đá khô cằn, âm thầm dệt nên tấm thảm đẹp nhất của đời mình. Trời càng nắng, dã quỳ càng vàng ửng tận độ thiên thu. Thậm chí, không biết có phải hoang dã mà dã quỳ rắn rỏi, hùng dũng hút tinh chất của đất lớn lên xanh tốt, mập mạp, um tùm, không hề yếu mềm mà ngược lại sinh sôi nảy nở bất tận.

          Trong tôi, dã quỳ đã trở thành loài hoa quen thuộc từ độ tôi mới bốn, năm tuổi. Tôi sinh ra đã thấy dã quỳ nở vàng như mật ong, như nắng thu êm đềm, mênh mang trên những con đường làng. Dã quỳ dát vàng ươm, lung linh bên hàng rào sau vườn nhà. Mỗi cây đẻ nhánh, và mỗi nhánh là một bông hoa rực rỡ như ngàn mặt trời nhỏ, như đang mỉm cười lấp lánh. Từng cánh dã quỳ vàng ruộm mềm mại, nhẹ bẫng, dịu như lụa, xoè rộng nhịp nhàng, đều đặn quanh nhuỵ hoa. Mỗi lần chạm tay vào những cánh hoa ấy, tôi tưởng tượng như mình đang vuốt ve một thứ gì đó êm ái, man mác khó tả.

Dã quỳ không kiêu sa như hoa hồng, hoa lan hay hoa mai, mùi thơm cũng không nồng nàn, dìu dịu, trong trẻo như hoa nhài, hoa sứ. Ngược lại, hoa dã quỳ có mùi hăng hăng, đăng đắng rất dữ dội. Mùi hoa ấy gắn với đời hoa bền bỉ, gắn với gió sương, với tự do giữa đại ngàn, với sức sống kiên cường, vươn cao vững chãi trước muôn ngàn dâu bể. Bởi thế, ai đã từng ngửi mùi hoa dã quỳ dù chỉ một lần ắt hẳn sẽ không thể quên. Mùi hoa ấy khiến người ta liên tưởng đến cuộc đời nhiều gai góc gian truân, vất vả, đến sự độc đáo và như một dấu ấn, biểu tượng rất riêng của cao nguyên. Dẫu mưa rơi buốt lạnh giữa đại ngàn, dẫu gió ào ạt từng trận, dẫu nắng hanh hao khô héo thì dã quỳ vẫn khoe sắc như ngàn mặt trời vàng nhỏ. Màu hoa ấy hoà cùng nắng, cùng sắc xanh của lá, tạo thành bức tranh đủ mê hoặc, quyến rũ

          Những lần ngắm dã quỳ, ngắt một bông, hít hà cái mùi hăng của hoa để cảm nhận cái vẻ đắng tận cùng đó. Tôi không thích lắm cái mùi hoa kì lạ và mạnh mẽ ấy, cái vẻ đằm đằm trìu mến của hoa nguyệt quế hoặc hoa nhài vẫn làm tôi đắm say hơn. Tuy nhiên, nếu ngẫm ngợi một chút, sẽ lại thấy mùi hương dã quỳ đọng lại thật bền lâu trong tâm tư, bởi vì đặc biệt, bởi vì mùi hương ngai ngái, nồng nồng xộc mạnh vào mũi. Mùi hương ấy cũng chính như hương vị cuộc đời, cay đắng mà không bế tắc, nghiệt ngã mà vẫn bền bỉ. Cứ vậy vươn mình mặc cho ngàn bão tố quần quật ập xuống mà vẫn không chùn bước, không cúi đầu. Bất giác tôi tự trách mình lạnh nhạt, ghét bỏ mùi hương trong một giây phút trẻ thơ nào đó.

          Đã có lần mẹ tôi bảo, hoa dã quỳ rạng rỡ, nổi bật chói lọi sắc vàng hoàng kim là một chuyện, mà bản thân cành, lá dã quỳ cũng rất có ích. Người ta hay cắt những thân, lá đem về bỏ nơi gốc cà phê, hoặc đem ủ làm phân xanh để bón cho lạc, đậu, đỗ, khoai lang góp phần cung cấp chất dinh dưỡng. Điều đó thật kì lạ, loài cây không được chăm bón nhưng lại sẵn sàng đem thân mình hiến dâng, hi sinh thầm lặng, làm nền cho cây khác vươn lên xanh tốt, khẽ khàng dệt lên những mùa yêu thương.

Vòng đời của dã quỳ thường tồn tại một năm. Một năm chỉ có một mùa nở, rồi sau đó héo úa lụi tàn khi gặp những cơn mưa tới tấp của mùa hạ. Nhưng đó không phải là sự lụi tàn vĩnh viễn, mà chỉ là thoáng chốc, chỉ lặng lẽ ẩn mình nơi lớp đất. Tạm vắng mặt trong một vài phút giây để rồi tiếp tục những mùa hoa sau, lại tự nhiên lớn lên, lại ra hoa, lại rực rỡ vàng tươi. Có lẽ, sự lui mình về đất trong vài tháng là để chuẩn bị cho những gì tiếp sau sẽ mạnh mẽ óng ả hơn chăng? Hay như để khẳng định cái vẻ đặc biệt, sự cuốn hút hấp dẫn khó cưỡng mà không gì có thể quật ngã, không gì có thể làm tan biến…

Đâu đó từng viết về huyền thoại hoa dã quỳ, gắn với một mối tình nhiều trắc trở, đau đớn, đôi trai gái phải đánh đổi bằng cái chết bi thương. Máu, thân xác và nước mắt của họ khi đi tìm nhau đã thấm vào đất để rồi từ đó mọc lên hàng vạn cây dã quỳ, nở thành từng đồi bạt ngàn. Vì thế, dã quỳ vừa là ân sủng của thượng đế, vừa tượng trưng cho một tình yêu mãi mãi không xế chiều mà luôn luôn thanh tân, tươi mới. Một tình yêu bất diệt, son sắt, thuỷ chung, kiên cường, như chính dã quỳ đang vươn lên bừng sáng giữa đất trời hoang dại, và không ngừng làm đẹp cho đời mỗi ngày.

          Dã quỳ là món quà của thiên nhiên, được đất trời gửi gắm trong màu hoa vàng tưởng chừng như gay gắt nhưng lại rất dịu dàng. Màu vàng ấy làm ấm cả không gian núi đồi, thảo nguyên bao la trong những ngày gió bấc ù ù kéo tới, những ngày khô hạn và giá buốt. Màu vàng tươi mới, lẫn chút hoang dại tự do, khác hẳn hoa cúc, có phần tươi thắm và đậm đà hơn, cũng khác hẳn màu vàng no ấm, ngọt ngào của lúa chín. Màu vàng ấy gợi đến nghị lực luôn hướng về phía mặt trời, đến niềm tin không bao giờ nguội tắt, đến sự kiêu hãnh khó cưỡng của loài hoa có một không hai.

          Vì dã quỳ gần gũi trong tầm với, hiện diện thân thuộc hàng ngày như cơm bữa, thế nên tôi tưởng rằng dã quỳ mặc nhiên sẽ lại trở về cùng tôi dù có muôn vàn cách trở. Nhưng rồi bước chân của người lữ khách một ngày dừng chân ở bến khác vời vợi, thăm thẳm, biền biệt. Vậy là tôi đã xa dã quỳ, để rồi rất nhiều năm sau, khi tôi mải miết đi tìm, vui mừng khi thấy thấp thoáng đâu đây một con đường rợp bóng hoa dã quỳ, hay một bụi dã quỳ nằm vàng ươm bên những cỏ cây hoa dại loà xoà. Lúc ấy, lòng tôi như dậy sóng, xốn xang, hoài thương, sầu nhớ một màu hoa. Hoa dã quỳ đã trở thành miền kí ức, hoài niệm không nhạt phai trong trái tim tôi. Kí ức ấy đủ sống trong nhiều năm dài để nhắc nhớ rằng, tôi có một miền quê đầy cà phê mang vị đắng Bắc Tây Nguyên, và một sắc vàng dã quỳ rợp cả một góc trong tâm hồn vốn ngày càng chật chội bởi những lo toan thường nhật.

Dịu Phạm