TÁC GIẢ THANH THỦY

C

ó những trưa hè hăng hắc nóng, khi cái oi nồng của phố thị len vào từng con hẻm, quẩn quanh trong căn phòng trọ ngột ngạt như muốn tước đi cả vị giác, lòng tôi lại ngai ngái thèm một bát canh tập tàng mẹ nấu. Thèm đến cồn cào, đến da diết. Món ăn dân dã ấy chẳng hề có tên trong một cuốn sách ẩm thực sang trọng nào, không gia vị cầu kỳ, chẳng cần đến tôm thịt cao sang, mà vẫn đủ đầy hương vị rau quê và một thứ tình yêu thương mộc mạc, kiệm lời như chính con người mẹ.

          Hai chữ “tập tàng” tự nó đã đủ sức khơi gợi về sự góp nhặt, hỗn hợp. “Tàng” trong Hán tự là gom chứa, trong tiếng Việt thuần hậu là nhặt nhạnh, chắt chiu. Bởi thế, rau tập tàng không phải tên một loại rau nhất định, mà là bản hòa tấu ngẫu hứng của những thứ rau mót, rau dại, là món quà hào phóng của đất trời sau mỗi vụ mùa. Có nơi còn gọi là “tập tàn”, ấy là khi những luống rau chính vụ đã lụi đi, nhường chỗ cho những hạt rau dền cơm, rau sam, đọt đắng… sót lại trong đất tự mình vươn lên. Chúng chẳng cần ai vun xới, chẳng cần nâng niu chăm bẵm mà vẫn xanh non mơn mởn, căng tràn nhựa sống.

Dù là “tàng” hay “tàn”, mớ rau ấy vẫn là sự chắt chiu của người, tạo nên một bát canh quê ngọt dịu, thanh mát lạ lùng. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh mẹ với chiếc rổ tre đã lên nước bóng loáng trên tay, chậm rãi đi dọc bờ rào, mé vườn. Đôi mắt mẹ tinh tường lướt qua đám cỏ dại, nhận ra từng loại lá quen thuộc. Đây là một nhúm rau muống hột bò lan, kia là vài đọt khoai lang tím rịm vươn dài, dăm ba lá lốt xanh thẫm nấp mình khiêm nhường, một cây rau ngót mọc cô đơn tự bao giờ… Mỗi thứ một chút, chẳng mấy chốc chiếc rổ đã đầy ắp một màu xanh non. Mớ rau ấy, chỉ cần đem luộc chấm mắm, hay nấu suông với chút ruốc, chút mỡ thắng thơm lừng, cũng đủ thành một bữa cơm khiến người đi xa phải cồn cào nhớ. Nỗi nhớ đôi khi trở mình, đâu chỉ vì một món ăn. Bát canh tập tàng là chiếc cầu nối vô hình giữa quá khứ và hiện tại, giữa quê nhà yên bình và phố thị.

          Tôi làm sao quên những ngày giáp hạt, khi lúa ngoài đồng chưa kịp trổ đòng, khi công việc làm thuê cũng thưa thớt. Cái nghèo không mời mà cứ len lỏi qua từng bậu cửa, luồn vào mỗi góc nhà, gieo vào lòng người những âu lo thầm lặng. Những ngày ấy, bữa cơm gia đình trông cả vào sự khéo léo, tảo tần của mẹ. Lại là bóng lưng cặm cụi ấy, lại là chiếc rổ con con, mẹ đi quanh xóm, xin người ta đám rau sam mọc hoang sau vườn, nhặt mấy cọng dền cơm sót lại trên luống đất vừa thu hoạch. Bát canh của mẹ khi ấy, giản dị như chính cuộc đời người. Nó không mang một mùi vị cụ thể nào, mà là sự tổng hòa của vị ngọt thanh từ rau dền, cái trơn nhớt vui miệng của mồng tơi, chút bùi bùi của đọt lang, và đôi khi là vị nhân nhẩn đặc trưng của rau đắng. Mỗi loại rau tự mình góp một chút duyên, không tranh giành, không lấn át, để cùng nhau dâng lên một vị ngọt lành không thể trộn lẫn.

Ngày nay ở thành phố, tôi đi siêu thị, nhìn những mớ rau được bó ngay ngắn, bọc trong nilon sạch sẽ, dán nhãn “rau an toàn”. Chúng đều tăm tắp, xanh mướt một cách hoàn hảo. Nhưng dù có cố gắng mua đủ loại rau như mẹ từng hái, nấu một nồi canh đúng công thức ký ức, hương vị vẫn cứ xa lạ. Nó thiếu đi cái vị của nắng, của gió, thiếu đi cái mộc mạc của đất vườn và có lẽ, thiếu cả giọt mồ hôi cùng tình yêu thương vô bờ của mẹ đã nêm vào. Canh ở phố ngon theo kiểu công nghiệp, còn canh của mẹ ngon cái vị của tự nhiên, của sự sống hoang dại mà mãnh liệt.

Bát canh nhỏ bé ấy lại gói trọn cả một triết lý sống sâu sắc. Ấy là bài học về sự hài hòa, về cách sống thuận tự nhiên, không phô trương. Mỗi cây rau dại, mỗi mầm lá hoang, dù nhỏ bé, dù không tên, cũng đều có giá trị riêng, đều biết góp mình cho đời. Ăn bát canh của mẹ, tôi như được học về sự đoàn kết, về cách dung hòa những cá tính khác biệt để tạo nên một tập thể vững mạnh. Tuổi thơ ăn bát canh là ăn cả sự chắt chiu, chịu thương chịu khó của mẹ. Lớn lên mới hiểu, mỗi món ăn đều có thể trở thành một bài học nếu ta đặt vào đó cả tấm lòng khi thưởng thức.

          Canh tập tàng không có một công thức bất biến. Tôi đồ rằng mỗi bà mẹ sẽ nấu cho con mình một hương vị riêng, cũng như tình yêu họ trao đi chẳng bao giờ có bản sao. Tôi từng ăn canh tập tàng nhà hàng xóm, cũng ngon, cũng thanh mát, nhưng nó không phải là “vị của mẹ”. Có bát canh ngọt dịu, mát lành như tình yêu bao dung, vỗ về. Lại có bát đậm vị nhẩn đắng của rau đắng, lá lốt, tựa tình yêu nghiêm khắc mà sâu sắc. Nhưng dù gia giảm thế nào, dù ngọt hay đắng, thì điểm chung cuối cùng vẫn là cái vị “quê nhà” man mác thấm vào tận tâm can.

Bát canh tập tàng của mẹ, bát canh của tuổi thơ, đâu chỉ là một món ăn. Nó là một thực thể của ký ức. Nó ngọt bởi mẹ đã nêm vào đấy cả sự tảo tần và đức hy sinh thầm lặng. Nhớ bát canh là nhớ dáng mẹ lom khom đi về, chân sấp chân ngửa, đôi tay gân guốc sạm đen vì nắng gió, vừa làm đồng về đã vội ngắt mấy đọt lang, rau sam cho kịp bữa cơm chiều. Nhớ cả tiếng dao lách cách trên thớt gỗ cũ mèm, tiếng nước sôi lục bục trong chiếc nồi nhôm đã méo mó theo năm tháng. Tất cả những âm thanh, hình ảnh ấy hợp lại, tạo thành một miền ký ức bình yên mà không bão giông nào có thể xóa nhòa.

          Những đứa con lớn lên từ ruộng vườn, đi xa rồi vẫn mang theo trong ký ức mùi khói rạ cay nồng mỗi chiều, mùi bùn non ngai ngái, mùi cá đồng kho và hương vị không thể nào quên của bát canh tập tàng. Để rồi mỗi khi mỏi mệt giữa dòng đời xuôi ngược, mỗi khi phải ăn những bữa cơm vội vàng nơi quán xá, chỉ cần nghĩ về nó, lòng lại mềm đi như cọng rau non trong nắng sớm. Ôi, bát canh nhà quê của mẹ, mảnh ký ức da diết khôn nguôi! Nỗi nhớ quê hương, có khi chẳng cần ồn ào réo gọi, mà cứ đau đáu và dịu dàng, hiển hiện vẹn nguyên trong một bát canh dung dị. Nó nhắc tôi về cội nguồn, về nơi có mẹ vẫn ngày ngày ngóng đợi, về những giá trị đích thực của cuộc sống đôi khi lại nằm ở những điều giản đơn nhất.

Chỉ là một bát canh rau tập tàng thôi, chỉ là những thức quê vốn đã quê mùa bấy lâu thôi. Nhưng đã gom chứa, chắt chiu bao tảo tần thảo thơm của mẹ…

Thanh Thủy